Thursday, 18 October 2018

Yên Bái (thành phố) – Wikipedia tiếng Việt


Thành phố Yên Bái là một thành phố ở phía Bắc Việt Nam, là tỉnh lỵ của tỉnh Yên Bái, được thành lập vào năm 2002[3]. Đây là một đô thị loại III của Việt Nam.





Nằm cạnh sông Hồng, phía đông và đông bắc giáp huyện Yên Bình, phía tây và tây nam giáp huyện Trấn Yên. Thành phố rộng 108,155 km² và có 95.892 người (năm 2008) của gồm 18 dân tộc trong đó Kinh chiếm đa số.



Thành phố Yên Bái trong suốt chiều dài lịch sử đã trải qua nhiều lần thay đổi về địa danh và địa giới hành chính. Thời các Vua Hùng, mảnh đất này nằm trong bộ Tân Hưng, thời phong kiến Bắc thuộc nằm trong vùng đất Tượng Quân, Giao Chỉ rồi Phong Châu. Đến thế kỷ XI (thời nhà Lý) thuộc Châu Đăng. Thế kỷ XVI (đời Lê Thánh Tông) nằm trong lộ Quy Hoá thuộc tỉnh Hưng Hoá. Cuối thế kỷ XVI là một làng nhỏ bé trong tổng Bách Lẫm, phủ Quy Hoá thuộc tỉnh Hưng Hoá.

Ngày 15 tháng 4 năm 1888, thực dân Pháp phân chia các địa bàn từ Thanh Hoá trở ra Bắc thành 14 quân khu. Địa bàn thành phố Yên Bái ngày nay thuộc Quân khu Yên Bái.

Sau một thời gian, toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan đã ra Nghị định bãi bỏ các quân khu để thiết lập các đạo quan binh hoàn toàn nằm trong chế độ quân quản. Dưới đạo quan binh là các tiểu quân khu. Ngày 9 tháng 9 năm 1891, toàn quyền Đông Dương quy định đạo lỵ quan binh Yên Bái đặt tại xóm Đồng Thị, xóm Gò Cau tại làng Yên Bái, tổng Bách Lẫm huyện Trấn Yên. Đứng đầu đạo quan binh là một viên trung tá.

Ngày 11 tháng 4 năm 1900, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Yên Bái, tỉnh lỵ được đặt tại làng Yên Bái thuộc tổng Bách Lẫm, huyện Trấn Yên. Thị xã Yên Bái được hình thành là trung tâm của tỉnh nằm ở chân đồn Cao - khu vực quân sự của thực dân Pháp (phường Nguyễn Phúc ngày nay) với diện tích chưa đầy 2 km². Năm 1905, một số làng thuộc tổng Bách Lẫm được đưa vào thị xã. Thị xã Yên Bái lúc đầu chỉ là một phố thuộc phủ Trấn Yên rồi dần dần hình thành 4 khu phố nhỏ là phố Hội Bình, Yên Lạc, Yên Hoà, Yên Thái (khu vực phường Hồng Hà ngày nay).

Tháng 7 năm 1954, hoà bình lập lại trên miền Bắc, thị xã Yên Bái được khôi phục và mở rộng. Ngày 7 tháng 4 năm 1956 theo Nghị định số 72/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã quyết định tái lập thị xã Yên Bái. Thôn Lò Vôi thuộc xã Minh Bảo và xóm nhà thờ thuộc xã Nam Cường được đưa vào thị xã Yên Bái.

Ngày 27 tháng 12 năm 1975, ba tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ (trừ 2 huyện Bắc Yên và Phù Yên nhập vào tỉnh Sơn La) và Lào Cai hợp nhất thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, thị xã Yên Bái được chọn làm tỉnh lỵ tỉnh Hoàng Liên Sơn, gồm 4 phường: Hồng Hà, Minh Tân, Nguyễn Thái Học, Yên Thịnh.

Ngày 16 tháng 1 năm 1979, do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, thị xã Yên Bái được mở rộng, Hội đồng Bộ trưởng đã có Quyết định số 15-CP/HĐBT quyết định sáp nhập các xã Tuy Lộc, Nam Cường, Tân Thịnh và Minh Bảo của huyện Trấn Yên vào thị xã Yên Bái.[4]

Ngày 6 tháng 6 năm 1988, tại Quyết định số 101-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định phát triển từ 4 phường của thị xã Yên Bái là phường Hồng Hà, Nguyễn Thái Học, Minh Tân, Yên Thịnh lên thành 7 phường cụ thể như sau: chia phường Hồng Hà thành 2 phường lấy tên là phường Hồng Hà và phường Nguyễn Phúc; chia phường Nguyễn Thái Học ra thành 2 phường lấy tên là phường Nguyễn Thái Học và phường Yên Ninh; chia phường Minh Tân thành 2 phường là phường Minh Tân và phường Đồng Tâm.[5]

Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn được tách thành 2 tỉnh là Yên Bái và Lào Cai, thị xã Yên Bái trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Yên Bái.[6]

Năm 2001, thị xã Yên Bái được công nhận là đô thị loại III.

Ngày 11 tháng 1 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 05/2002/NĐ-CP thành lập thành phố Yên Bái trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Yên Bái.[7]

Theo Nghị định số 87/2008/NĐ-CP/ ngày 4 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ, sáp nhập 6 xã: Văn Phú, Văn Tiến, Hợp Minh, Giới Phiên, Phúc Lộc, Âu Lâu thuộc huyện Trấn Yên vào thành phố Yên Bái.[8]

Ngày 12 tháng 12 năm 2013, chuyển 2 xã Nam Cường và Hợp Minh thành 2 phường có tên tương ứng.[9]



Thành phố Yên Bái gồm 17 đơn vị hành chính trực thuộc, đó là 9 phường: Đồng Tâm, Hồng Hà, Hợp Minh, Minh Tân, Nam Cường, Nguyễn Phúc, Nguyễn Thái Học, Yên Ninh, Yên Thịnh và 8 xã: Âu Lâu, Giới Phiên, Minh Bảo, Phúc Lộc, Tân Thịnh, Tuy Lộc, Văn Phú, Văn Tiến.

Các tuyến đường chính của thành phố Yên Bái: Âu Cơ, Lê Trực, Trần Phú, Nguyễn Tất Thành, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Văn Cừ, Điện Biên, Quang Trung, Yên Ninh, Lý Thường Kiệt, Cao Thắng, Lê Chân, Thành Công, Lê Hồng Phong, Hòa Bình, Đại lộ Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, Hòa Bình, Nguyễn Du, Ngô Minh Loan, Kim Đồng, Trương Quyền.

Các cây cầu tại thành phố Yên Bái: cầu Văn Phú, cầu Bách Lẫm, cầu Yên Bái, hiện tại đang xây dựng cầu Bảo Lương và cầu Tuần Quán.



Dân cư của thành phố Yên Bái mang đặc trưng của cư dân thành thị vùng cao. Những năm đầu thế kỷ XX dân cư của thị xã Yên Bái thưa thớt. Người Kinh chiếm hầu như đa số, họ tập trung ở Bách Lẫm, Giới Phiên và thị xã Yên Bái với mật độ dân số là trên 10 người/1 km². Tuy nhiên, khi thực dân Pháp mở tuyến đường sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai và do chính sách tiểu đồn điền nên các luồng cư dân theo đường sông Hồng lên ngày một gia tăng, vì vậy dân số ở thị xã được tăng khá nhanh. Họ từ mạn Phú Thọ, Nam Định, Hà Nam, Hà Đông, Thái Bình lên sinh sống tại các vùng Bách Lẫm, Nam Cường. Trong dòng người nhập cư này phải kể thêm một số người từ các tỉnh miền xuôi lên đây khai thác lâm sản, buôn bán rồi ở lại luôn.

Ở vị trí nằm trên các tuyến đường giao thông huyết mạch thuỷ, bộ nên thành phố Yên Bái trở thành một trong những đầu mối thông thương quan trọng giữa miền ngược và miền xuôi. Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa đã thâm nhập vào đây từ rất sớm chứng tỏ đây là một vùng đất mở để đón nhận những khả năng và tiềm thức mới để thúc đẩy sinh hoạt và đời sống cộng đồng.





































































































































Dữ liệu khí hậu của Yên Bái
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Năm
Cao kỉ lục °C (°F)
29.6
34.8
35.5
36.9
40.0
39.3
39.8
39.6
37.3
37.2
33.1
30.8
40,0
Trung bình cao °C (°F)
19.2
19.9
23.0
27.0
31.2
32.5
32.6
32.5
31.5
28.6
25.2
21.7
27,1
Trung bình ngày, °C (°F)
15.7
16.8
19.7
23.5
26.7
28.0
28.1
27.8
26.6
24.1
20.6
17.3
22,9
Trung bình thấp, °C (°F)
13.6
14.8
17.8
21.1
23.7
25.0
25.2
24.8
23.6
21.3
17.8
14.5
20,3
Thấp kỉ lục, °C (°F)
3.3
5.1
6.8
11.0
16.8
18.6
19.5
18.3
16.9
11.3
6.8
2.9
2,9
Giáng thủy mm (inch)
33
(1.3)
45
(1.77)
75
(2.95)
131
(5.16)
219
(8.62)
291
(11.46)
310
(12.2)
364
(14.33)
283
(11.14)
180
(7.09)
66
(2.6)
27
(1.06)
2.024
(79,69)
% độ ẩm
87.5
88.3
89.1
88.2
84.4
84.7
85.6
86.2
85.3
85.4
84.8
85.0
86,2
Số ngày giáng thủy TB
14.9
17.2
21.2
21.2
16.9
16.8
18.8
18.4
14.3
12.4
9.4
9.1
190,6
Số giờ nắng trung bình hàng tháng
52
39
44
70
149
149
168
178
174
148
121
104
1.397
Nguồn: Vietnam Institute for Building Science and Technology[10]





No comments:

Post a Comment