Thursday, 18 October 2018

Binh chủng Pháo binh, Quân đội nhân dân Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt


Binh chủng Pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam là binh chủng hỏa lực chủ yếu của Quân chủng Lục quân và đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam,Bộ Quốc phòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng binh chủng Pháo binh 8 chữ "Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng" ngày 13 tháng 4 năm 1967.





  • Ngày 29 tháng 6 năm 1946 được coi là ngày thành lập Binh chủng Pháo binh. Vào ngày này, tại sân Vệ quốc đoàn Trung ương (40 Hàng Bài, Hà Nội), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam Hoàng Văn Thái đọc Quyết định thành lập Đoàn Pháo binh Thủ đô, gồm 3 trung đội: Pháo đài Láng, Pháo đài Xuân Tảo và Pháo đài Xuân Canh.

  • Năm 1948, lực lượng pháo binh phát triển tới cấp tiểu đoàn: tiểu đoàn pháo binh 410 (Liên khu 10), tiểu đoàn pháo binh chủ lực đầu tiên, được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1948.

  • Năm 1950 pháo binh phát triển tới cấp trung đoàn. Ngày 20 tháng 11 năm 1950 thành lập trung đoàn 675, Trung đoàn pháo cơ giới 45 được thành lập với trang bị gồm 20 khẩu lựu pháo 105 mm và 40 ô tô các loại.

  • Ngày 31 tháng 7 năm 1949, Cục Pháo binh được thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo, sửa chữa các loại pháo, đạn và mở lớp đào tạo cán bộ chỉ huy pháo binh và thợ pháo, do Trần Đại Nghĩa làm Cục trưởng.

  • Năm 1951, đại đoàn công pháo (công binh-pháo binh) 351 được thành lập, gồm 3 trung đoàn: trung đoàn pháo 675, trung đoàn pháo 45 và trung đoàn công binh 151.

  • Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, bộ đội pháo binh có 2 trung đoàn pháo, 4 tiểu đoàn pháo phản lực và súng cối, gồm: 24 khẩu 105 mm có xe kéo, 16 khẩu cối 120 mm, 30 khẩu sơn pháo 75 mm và ĐKZ, 12 dàn phản lực 102 mm, 36 khẩu cối 82 mm. Ngoài ra còn có 6 tiểu đoàn pháo trong biên chế các đại đoàn bộ binh.

  • Ngày 7 tháng 9 năm 1954, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Pháo binh, đến ngày 28 tháng 5 năm 1956 Binh chủng Pháo binh chính thức được thành lập với cơ quan đầu não là Bộ Tư lệnh Pháo binh.

  • Ngày 16 tháng 9 năm 1954, thành lập 2 đại đoàn pháo 675 và 349.

  • Ngày 21 tháng 9 năm 1954, thành lập đại đoàn pháo phòng không 367, đến năm 1958 tách khỏi Bộ Tư lệnh Pháo binh để đặt dưới quyền Bộ Tư lệnh Phòng không mới được thành lập.

  • Ngày 15 tháng 10 năm 1965, thành lập Đoàn pháo binh 69 (còn gọi là Đoàn pháo binh Biên Hòa), thuộc Bộ Tư lệnh Miền (chiến trường B2). Tháng 1 năm 1972, Đoàn pháo binh 69 chuyển thành Sư đoàn pháo binh 75 thuộc Bộ Tư lệnh Miền.

Pháo đài Láng[sửa | sửa mã nguồn]


  • Trung đội pháo đài Láng thành lập ngày 29 tháng 6 năm 1946, gồm 44 người, chia làm 3 khẩu đội, do Nguyễn Ưng Gia làm trung đội trưởng, Nguyễn Văn Khoát làm chính trị viên.. Pháo đài Láng vốn do Pháp lập ra sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ để bắn máy bay Nhật. Ở đây có 4 khẩu pháo cao xạ 75 mm mua của Đức là loại súng tối tân lúc bấy giờ được gắn cố định vào bệ bê tông. Năm 1940, Nhật đã buộc Pháp phải dùng pháo đài Láng để bắn máy bay Mỹ đến ném bom Hà Nội. Bộ đội Việt Nam dùng 2 khẩu cao xạ còn lại với 400-500 viên đạn làm pháo bắn mục tiêu mặt đất.

  • Ngày Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, Pháo đài Láng đã nổ súng bắn vào thành Hà Nội, yểm trợ cho bộ đội Việt Nam. Ba ngày sau, pháo đài Láng bắn rơi một máy bay trinh sát của Pháp. Nửa tháng sau thì pháo đài hết đạn, nhưng được điều thêm 1 khẩu sơn pháo 75 mm có bánh xe do ô tô kéo về. Ngày 10 tháng 1 năm 1947, trung đội pháo đài Láng rút khỏi Hà Nội, kết thúc đợt chiến đấu đầu tiên của pháo binh Việt Nam.

Pháo hỏa tiễn ĐKB[sửa | sửa mã nguồn]


  • Năm 1966 Liên Xô chi viện cho Quân đội nhân dân Việt Nam pháo hỏa tiễn 24 nòng đặt trên xe, sử dụng phương tiện hiện đại để phóng cùng một lúc 24 viên đạn, nhưng như thế chưa phù hợp với điều kiện tác chiến của Việt Nam. Phía Việt Nam yêu cầu Liên Xô cải tiến loại pháo hỏa tiễn đó bằng cách tháo rời giàn pháo ra từng nòng để bộ đội Việt Nam mang vác cơ động và chiến đấu được thuận lợi. Loại pháo cải tiến này được đặt tên mới là ĐKZB, và gọn hơn là ĐKB. Pháo hỏa tiễn ĐKB cỡ 122 mm, tầm bắn 11.200 m, đạn nặng gần 60 kg. Trung đoàn pháo hỏa tiễn 724 được thành lập tháng 2 năm 1966 và được đưa vào miền Đông Nam Bộ (chiến trường B2). Trung đoàn 724 trực thuộc Đoàn 69 (tương đương cấp sư đoàn) pháo binh Miền (tên gọi tắt của chiến trường B2). Trung đoàn trưởng Trần Đáo và Chính ủy Đinh Lại hy sinh trên đường vào miền Nam nên Tô Đê làm Trung đoàn trưởng và Lê Bình làm Chính ủy trung đoàn. Trung đoàn đã pháo kích sân bay Biên Hòa ngày 11 tháng 5 năm 1967, phá hủy và phá hỏng 150 máy bay các loại và nhiều phương tiện kỹ thuật, đốt cháy nhiều kho nhiên liệu, tiêu diệt và làm bị thương hơn 800 phi công và nhân viên kỹ thuật đối phương.

Vị trí[sửa | sửa mã nguồn]


Binh chủng pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam là binh chủng chiến đấu, là hỏa lực chủ yếu của lục quân; có thể tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng hoặc độc lập tác chiến.


Nhiệm vụ[sửa | sửa mã nguồn]


1. Chi viện hỏa lực trong tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng. Chi viện hỏa lực cho các lực lượng đánh nhỏ lẻ, phân tán, rộng khắp trong địa bàn tác chiến.

2. Kiềm chế, chế áp trận địa pháo binh, súng cối, tên lửa, sở chỉ huy của địch.

3. Chế áp, phá hoại, khống chế các mục tiêu quan trọng sâu trong đội hình địch như sở chỉ huy (vị trí chỉ huy), trung tâm thông tin, sân bay, kho, bến cảng... và hậu phương của địch.

4. Dùng hỏa lực pháo binh bắn tiêu diệt, gây tổn thất làm địch mất sức chiến đấu. Bắn phá các mục tiêu công sự, công trình phòng ngự của địch... gây mất tác dụng.

5. Bắn chế áp gây tổn thất cho các mục tiêu của địch, tạm thời mất sức chiến đấu, cơ động hạn chế, chỉ huy rối loạn.

6. Bắn kiềm chế gây tổn thất và tác động về tinh thần, tâm lý để hạn chế và ngăn chặn hoạt động của địch một cách tạm thời.





  • Văn phòng

  • Thanh tra

  • Phòng Tài chính

  • Bộ Tham mưu

  • Cục Chính trị

  • Cục Hậu cần

  • Cục Kỹ thuật

  • Trường Sĩ quan Pháo binh

  • Lữ đoàn 45

  • Lữ đoàn 204

  • Lữ đoàn 490

  • Lữ đoàn 675

  • Lữ đoàn 96

  • Trung tâm Huấn luyện - Đào tạo

  • Kho 380

  • Kho K86

  • Tiểu đoàn 371

  • Tiểu đoàn 97

  • Tiểu đoàn 10 vận tải - Cục HC

  • Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1976);

  • Huân chương Hồ Chí Minh (1979);

  • Huân chương Ðộc lập hạng Nhất (2001);

  • Huân chương Sao vàng (2006)

Chỉ huy và Lãnh đạo qua các thời kỳ[sửa | sửa mã nguồn]


Cục Pháo binh, Bộ Tổng tư lệnh[sửa | sửa mã nguồn]


Bộ Chỉ huy Pháo binh[sửa | sửa mã nguồn]


  • 1954-1956: Lê Thiết Hùng, Thiếu tướng (1948), Tư lệnh Bộ Chỉ huy Pháo binh

Tư lệnh Binh chủng[sửa | sửa mã nguồn]


  • 1956-1963: Lê Thiết Hùng, Thiếu tướng, Tư lệnh đầu tiên của Binh chủng Pháo binh.

  • 1964-1968: Nguyễn Thế Lâm, Thiếu tướng (1974)

  • 1968-1977: Doãn Tuế, lúc làm Tư lệnh là thiếu tướng, trung tướng (1984)

  • 1979-1988: Nguyễn Trung Kiên, Thiếu tướng

  • 1988-1995: Nguyễn Nam Hồng, Thiếu tướng (1989)

  • 1995-1998: Tống Ngọc Thắng, Thiếu tướng. Từ 1998 là Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.

  • 1998- 2005: Đỗ Quốc Ân, Thiếu tướng.[2]

  • 2005-2009: Vũ Thanh Lâm, Thiếu tướng (2006)

  • 2009-2015: Nguyễn Văn Côn, Thiếu tướng (2009)

  • 2015-nay: Đỗ Tất Chuẩn, Thiếu tướng (9.2015), nguyên Phó Tư lệnh kiêm TMT BInh chủng Pháo binh

Chính ủy Binh chủng, Phó tư lệnh chính trị[sửa | sửa mã nguồn]


  • 1958-1959: Lê Hiến Mai, Chính ủy đầu tiên của Binh chủng Pháo binh, trung tướng (1974)

  • 1959-1961: Nguyễn Xuân Hoàng, trung tướng (1986)

  • 1961-1963: Lê Quang Hòa, thượng tướng (1986)

  • 1963?-1965: Trương Công Cẩn

  • 1966-1971: Tạ Xuân Thu, thiếu tướng (1961)

  • 1971-1973: Đặng Hòa, Trung tướng (1986)

  • 1973-1979: Nguyễn Nam Thắng, Thiếu tướng

  • 1979-1980: Đặng Hòa, Thiếu tướng

  • 1980-1988: Hoàng Văn Thạ, Thiếu tướng

  • 1988-1993: Hoàng Định, Đại tá.

  • 1993-2005: Lê Giám đốc, Thiếu tướng.

  • 2005-2010: Trần Hữu Định, Thiếu tướng (2006)

  • 2010-9.2017: Nguyễn Thanh Ngụ. Thiếu tướng (2010)

  • 9.2017- nay: Hoàng Quang Thuận, Đại tá

Tham mưu trưởng[sửa | sửa mã nguồn]












No comments:

Post a Comment